Những câu hỏi liên quan
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
21 tháng 3 2017 lúc 4:48

- Đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trừ Xiêm (Thái Lan), các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa hay nửa thuộc địa của các nước đế quốc.

- Các nước đế quốc đều thi hành những chính sách cai trị hà khắc, khai thác, bóc lột thuộc địa dã mãn.

- Nhân dân ở khu vực này đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh giành chính quyền dưới nhiều hình thức chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc.

- Các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX đều thất bại song phong trào vẫn tiếp tục làm cơ sở cho sự phát triển tiếp theo ở những giai đoạn sau này.

Bình luận (0)
Đinh Thị Ánh Thư
Xem chi tiết
︵✰Ah
27 tháng 10 2021 lúc 22:26

Tham khảo 
 

Nhận xét về phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX – đầu XX:

- Từ khi bị thực dân phương Tây xâm lược, phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á đã bùng nổ mạnh mẽ, liên tục và rộng khắp. 

      + Ở In-đô-nê-xi-a, nhiều tổ chức yêu nước của trí thức tư sản tiến bộ ra đời. Từ sau năm 1905, nhiều tổ chức công đoàn được thành lập và bước đầu truyền bá chủ nghĩa Mác vào In-đô-nê-xi-a. Năm 1905, công đoàn đầu tiên của công nhân xe lửa được thành lập. Năm 1908, Hội liên hiệp công nhân In-đô-nê-xi-a ra đời. Tháng 5/1920, Đảng Cộng sản ra đời.

      + Ở Phi-líp-pin, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của Tây Ban Nha diễn ra quyết liệt. Cuộc Cách mạng 1896-1898 bùng nổ dẫn tới sự ra đời nước Cộng hòa Phi-líp-pin, nhưng sau đó lại bị Mĩ thôn tính.

      + Ở Cam-pu-chia, ngay sau khi vua Nô-rô-đôm kí hiệp ước thừa nhận nền đô hộ của Pháp năm 1863, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ ra. Điển hình là cuộc khởi nghĩa do A-cha Xoa lãnh đạo ở Ta Keo (1863-1866) và cuộc khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của nhà sư Pu-côm-bô ở Cra-chê (1866-1867).

      + Ở Lào, năm 1901 nhân dân Xa-van-na-khét tiến hành cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Pha-ca-đuốc. Cũng năm đó, một cuộc khởi nghĩa khác đã nổ ra ở cao nguyên Bô-lô-vẹn, lan sang cả Việt Nam và kéo dài đến năm 1907 mới bị dập tắt.

      + Ở Việt Nam, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra liên tục quyết liệt. Bên cạnh phong trào Cần Vương, làn sóng đấu tranh chống Pháp diễn ra ở khắp nơi, mà tiêu biểu là phong trào nông dân Yên Thế (1884-1913).

- Các phong trào lần lượt thất bại vì lực lượng của bọn xâm lược mạnh, chính quyền phong kiến ở nhiều nước đầu hàng làm tay sai cho đế quốc, các cuộc đấu tranh lại thiếu tổ chức và thiếu sự lãnh đạo chặt chẽ, không có đường lối đấu tranh.

Bình luận (0)
Thảo vân
Xem chi tiết
An Phú 8C Lưu
18 tháng 11 2021 lúc 20:10

Vào cuối tk XIX chế độ pk ở ĐN Á bị suy yếu trầm trọng nhiều cuộc khởi nghĩa lật đổ cđpk nổ ra.

Bình luận (0)
Bommer
18 tháng 11 2021 lúc 20:12

tham khảo:

Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, trừ Xiêm (Thái Lan), các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa hay nửa thuộc địa của các nước đế quốc.

Bình luận (0)
Julie
18 tháng 11 2021 lúc 21:08

- Đông Nam Á: có vị trí địa lí quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên, chế độ phong kiến khủng hoảng, suy yếu nên bị các nước phương Tây nhòm ngó.

- Cuối thế kỉ XIX tư bản phương Tây hoàn thành việc xâm lược Đông Nam Á( trừ Thái Lan).

Bình luận (0)
Nguyễn Thanh Hằng
Xem chi tiết
Phạm Thị Diệu Hằng
25 tháng 3 2017 lúc 2:27

- Đông Nam Á là một khu vực có vị trí địa lý quan trọng, giàu tài nguyên, chế độ phong kiến đang lâm vào khủng hoảng, suy yếu nên không tránh khỏi bị các nước phương Tây nhòm ngó, xâm lược.

- Từ nửa sau thế kỷ XIX, tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm lược Đông Nam Á: Anh chiếm Mã Lai, Miến Điện; Pháp chiếm 3 nước Đông Dương; Tây Ban Nha rồi Mỹ chiếm Philippin; Hà Lan và Bồ Đào Nha chiếm Inđônêxia.

- Xiêm (Thái Lan) là nước duy nhất ở Đông Nam Á vẫn giữ được độc lập, nhưng cũng trở thành “vùng đệm” của tư bản Anh và Pháp.

Bình luận (0)
Tu Nhii
Xem chi tiết
Sách Giáo Khoa
Xem chi tiết
Võ Đông Anh Tuấn
11 tháng 4 2017 lúc 10:29

- Đông Nam Á là một khu vực có vị trí địa lý quan trọng, giàu tài nguyên, chế độ phong kiến đang lâm vào khủng hoảng, suy yếu nên không tránh khỏi bị các nước phương Tây nhòm ngó, xâm lược.

- Từ nửa sau thế kỷ XIX, tư bản phương Tây đẩy mạnh xâm lược Đông Nam Á: Anh chiếm Mã Lai, Miến Điện; Pháp chiếm 3 nước Đông Dương; Tây Ban Nha rồi Mỹ chiếm Philippin; Hà Lan và Bồ Đào Nha chiếm Inđônêxia.

- Xiêm (Thái Lan) là nước duy nhất ở Đông Nam Á vẫn giữ được độc lập, nhưng cũng trở thành “vùng đệm” của tư bản Anh và Pháp.

Bình luận (0)
CÔNG CHÚA THẤT LẠC
21 tháng 12 2018 lúc 16:14

Những nét chính về tình hình các nước Đông Nam Á vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX:

- Từ cuối thế kỉ XIX, chế độ phong kiến ở các nước Đông Nam Á lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu.

- Từ nửa sau thế kỉ XIX, các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa của các nước thực dân phương Tây (trừ Xiêm).

- Sự xâm lược và đô hộ của các nước thực dân phương Tây đã gây nên những chuyển biến lớn trong xã hội, các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội ở các nước Đông Nam Á diễn ra mạnh mẽ.


Bình luận (0)
Bangtan Bàngtán Bất Bình...
Xem chi tiết
Hoàng hôn  ( Cool Team )
11 tháng 10 2019 lúc 9:57

Trong bối cảnh chung của thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa đang ở vào giai đoạn phát triển cực thịnh; giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước lớn làm tăng nhu cầu vế thuộc địa, cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa. Các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ngày càng được đẩy mạnh.

Bước vào đầu thế kỷ XIX vùng Đông Nam Á rộng lớn trở thành mục tiêu của các nước đế quốc. Trước xu thế bành trướng của các nước đế quốc, nhiệm vụ lịch sử chung của các nước Đông Nam Á lúc này là: bằng mọi cách phải bảo vệ độc lập dân tộc. Con đường thực hiện điều này ở từng nước lại khác nhau.

Trong khi hầu hết các quốc gia Đông Nam đều không chống chọi được với chủ nghĩa thực dân Phương Tây thì Xiêm (Thái Lan) là một nước Đông Nam Á ngoại lệ, đã sớm nhận thức được cục diện chính trị thế giới và xây dựng được chương trình hành động phù hợp để bảo vệ chủ quyền dân tộc. Vậy nguyên nhân nào đã giúp Xiêm bảo vệ được nền độc lập cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong khi các nước Đông Nam Á khác không giữ được?. Theo chúng tôi có những nguyên nhân sau:

Chính sách đối ngoại “mềm dẻo”

Đây là chính sách cực kỳ khôn ngoan của Xiêm trong đường lối ngoại giao. Trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây, Xiêm đã chủ trương “mở cửa” đối với tất cả các quan hệ với họ, Xiêm một mặt tạo thế cân bằng với các nước phương Tây nhưng mặt khác lại tăng cường ảnh hưởng đến các nước láng giềng. Bằng chính sách ngoại giao “mềm dẻo” “lựa chiều” Xiêm đã duy trì “độc lập” sẵn sàng đương đầu với các thế lực tư bản Phương Tây. Năm 1511, Bồ Đào Nha chiếm Malaca; phản ứng của chính quyền Xiêm: im lặng vì người Thái chưa hiểu gì về Bồ Đào Nha. 

Để xác lập việc thống trị ở Malaca, Bồ Đào Nha đã đến vua Xiêm hội ý và xin đặt thánh giá tại quảng trường lớn của Xiêm. Vua Xiêm đã chấp nhận nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với Bồ Đào Nha, ngụ ý mua đại bác của người Bồ Đào Nha tấn công Mianma. Xiêm đã tạo được mối giao hảo với người Bồ Đào Nha. Năm 1604, Hà Lan đến Xiêm xin lập cơ sở buôn bán, vua Xiêm cho người Hà Lan được quyền buôn bán ở đây. Năm 1610, thương điếm của người Hà Lan được xây dựng ở thủ đô Ayuthaya. Cùng với người Hà Lan, Công Ty Đông Ấn Độ của Anh cũng sớm có mặt ở Xiêm. Sau đó Anh bị Hà Lan chèn ép phải đóng cửa thương điếm mất ảnh hưởng ở đây . Năm 1662-1664, Anh trở lại Xiêm, người Xiêm đón tiếp nồng nhiệt và đáp ứng mọi yêu cầu của Anh chống lại ảnh hưởng Hà Lan tại đây.

Năm 1662, người Pháp đến Xiêm, Pháp yêu cầu Xiêm cho tự do truyền đạo và tự do buôn bán. Yêu cầu đó được vua Xiêm chấp nhận. Lúc bấy giờ vấn đề độc lập chưa đặt ra với Xiêm, bằng chính sách ngoại giao khôn khéo Xiêm đã mở cửa quan hệ với các nước phương Tây; biết dựa vào các thế lực Hà Lan để chống lại thế lực ngày càng lớn mạnh của Bồ Đào Nha nhưng khi thế lực của Hà Lan ngày càng chi phối mạnh mẽ ở Xiêm thì họ lại dựa vào Anh để chống Hà Lan… Sang thế kỷ XIX, nước Anh lại đẩy mạnh xâm chiếm khu vực Đông Nam Á, sau khi chiếm được Singapore (1819), Anh lại tập trung chú ý vào bán đảo Malaixia và thị trường Xiêm.

Năm 1832 một chiến hạm chở đại sứ Anh Tôn-Krâu- Phec-đơ đã lên đường và nhanh chóng thả neo ở sông Mê Nam(Xiêm). Trong quá trình đàm phán, phía Xiêm đề nghị với Anh bán vũ khí cho mình còn phía Anh yêu cầu được tự do mua bán và quyền tối huệ quốc. Kết quả là hai bên đã đi đến ký hiệp ước ngày 10/6/1822, theo đó tàu của Anh được phép đi sâu vào sông Mê nam nhưng với điều kiện là phải tháo dở đại bác cùng vũ khí khác lên bờ và Xiêm được phép kiểm tra tàu Anh. Về phần mình, cơ quan hải quan của Xiêm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc buôn bán của người Anh và bảo đảm không tăng thuế trong tương lai.

Hai năm sau, tình hình trở nên phức tạp khi thực dân Anh phát động chiến tranh xâm lược Miến Điện. Ngay khi lên cầm quyền (8/1824) Rama III đã điều ngay 3 đạo quân lớn tới biên giới Miến- Xiêm và một đạo quân khác tới Ligo để 2 chờ cơ hội mở rộng lãnh thổ trong trường hợp Anh bị sa lầy trong cuộc chiến tranh với Miến Điện.

Năm 1824, Anh đề nghị với Xiêm: cùng phối hợp tấn công Mianma, Xiêm tấn công Miến từ phía đông bắc, nơi quân Anh chưa thể vươn tới được, để phân tán lực lượng của quân Miến Điện, tạo điều kiện cho lực lượng Anh tấn công từ phía biển lên, đồng thời gây sức ép buộc Xiêm phải từ bỏ tham vọng ở các tiểu quốc trên bán đảo Malai, nơi có vị trí thương mại quan trọng đối với cả Xiêm lẫn Anh.

Biết được ý đồ “Một mũi tên bắn trúng hai đích” của Anh nên lúc đầu Xiêm không tham gia. Đến năm 1825, Anh cử một phái bộ do đại úy Hăng ri- Bowni cầm đầu đến Xiêm xin tiếp viện. Vua Rama III đồng ý giúp Anh đánh Miến Điện nhưng không phối hợp với quân anh mà độc lập tác chiến, bằng cánh cho quân tiến đánh Motama, nơi trước đây Miến Điện thường tập trung quân trước khi tấn công Xiêm và một số nơi khác Trước sự tấn công mạnh mẽ của quân Anh và Xiêm, vua Miến Điện Bagyido phải đầu hàng và ký hiệp ước.

Theo hiệp ước: Miến Điện phải nhường các địa phương ven biển và các đảo cho Anh đồng thời phải nộp phạt 10 triệu Rubi. Trong hiệp ước còn ghi rõ “Vua Xiêm là đồng minh rất trung thực của nước Anh sẽ được hưởng nhiều quyền lợi” Như vậy, nhờ chủ động tham chiến một cách khôn khéo Xiêm vừa góp phần tiêu diệt Miến Điện, kẻ thù lâu đời của mình vừa không bị rơi vào mưu đồ của Anh, ngược lại được chia phần “Thắng lợi” và trở thành đồng minh với Anh trong cuộc chiến chống lại Miến Điện. Điều đó mang lại cho Xiêm một vị thế mới trong quan hệ với Anh.

Nhờ đó ngày 20/6/1826 Xiêm đã ký với Anh một hiệp ước mới trong tư thế hoàn toàn bình đẳng với Anh. Nội dung chủ yếu của hiệp ước là hai bên thõa thuận phân chia ảnh hưởng trên bán đảo Mã Lai. Với hiệp ước này Xiêm không hề bị thua thiệt trong bất cứ một điều khoản nào cả đối với Anh. Không dừng lại trong quan hệ với Anh, Xiêm đã chủ động thiết lập quan hệ với Mỹ, một thế lực mà Xiêm cho là dễ chịu hơn so với các thế lực Phương Tây khác lúc bấy giờ. Xuất phát từ nhận thức về vị thế và tầm quan trọng của Mỹ, Xiêm đã nhanh chóng ký hiệp định thương mại với Mỹ (20/3/1833) với những điếu khoản tương tự như hiệp ước với Anh. Mặc dù hiệp định thương mại chưa 3 mang lại nhiều lợi lộc cho Xiêm nhưng họ đã thu được nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật trong một số lĩnh vực như: in ấn, y tế, đóng tàu… kể cả học tiếng Anh.

Năm 1840, Xiêm chủ động ký với Mỹ một hiệp ước khác nhằm đẩy mạnh trao đổi thương mại giữa hai nước. Sau hiệp ước 1833 – 1840, Mỹ không thõa mãn tham vọng của mình, Mỹ muốn lấn tới hơn nữa, điều đó thôi thúc Mỹ tiếp tục tìm kiếm thị trường, đòi hỏi ở Xiêm nhiều hơn nữa. Năm 1850, tổng thống Mỹ Taylor đã cử Josep Barestier đến Băng Cốc yêu cầu Xiêm xét lại hiệp ước đã ký năm 1833. Triều đình Xiêm một mặt tỏ ra nhu mỳ, tiếp thu những ý kiến của Mỹ đưa ra song mặt khác soạn thảo một công hàm gửi tới Josep Barestier với nội dung từ chối những yêu cầu của Mỹ.

Trước sự từ chối của Xiêm, Mỹ đe dọa tấn công Xiêm, Mỹ tuyên bố rằng: Mỹ sẽ cấm thương nhân Xiêm tới Mỹ mua bán, kế tiếp Mỹ phát dộng phong trào bài trừ hàng hóa Xiêm. Mỹ đóng của không thông thương buôn bán với Xiêm, mục đích của Mỹ là cô lập Xiêm về kinh tế buộc Xiêm chấp nhận các điều khoản của Mỹ. Đứng trước tình hình đó, những nhà ngoại giao Xiêm vẫn tỏ ra bình tĩnh, vì họ cho rằng Mỹ không thể độc chiếm thị trường Xiêm vì nếu Mỹ độc chiếm Xiêm sẽ gặp phải sự kháng cự quyết liệt của vương quốc Anh, Ha Lan và một số nước tư bản khác vì những nước này đã ký với Xiêm nhiều hiệp ước thương mại. Kết quả đúng như Xiêm dự đoán, Mỹ chỉ nói như vậy nhưng sau đó lại tiếp tục đặt quan hệ với Xiêm.

Như vậy Xiêm đã khôn khéo tìm cách thiết lập quan hệ bang giao và thương mại với một số nước lớn phương Tây trong bối cảnh chung: Chủ nghĩa thực dân đang mở rộng chiến tranh xâm chiếm thuộc địa khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ La Tinh nữa đầu thế kỷ XIX đó là một thành công to lớn của Xiêm và nhờ đó họ đã giảm được áp lực về sự đe dọa đối với nền độc lập của mình từ phía các nước thực dân và tư bản Phương Tây, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp tục khống chế các nước xung quanh.

Trong đường lối đối ngoại của Xiêm, xuất phát từ nhận thức đúng đắn về bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực cũng như sự nhanh chóng phát triển thực lực của đất nước Xiêm biết cách “Lựa chiều” nhằm cân bằng quyền lực giữa các nước lớn để tồn tại và phát triển. 4 Biểu hiện trong quan hệ với Anh, Xiêm đã đi từng nước cờ khôn khéo: trước chiến tranh với Miến Điện, Xiêm là đối tượng xâm chiếm của Anh nhưng sau chiến tranh đã thay đổi vị trí trở thành đồng minh, cùng hưởng lợi trong cuộc chiến tranh Anh – Miến và đã thực sự bình đẳng với Anh trong hiệp ước thương mại Anh – Xiêm 1826. Tóm lại, trong quan hệ với các cường quốc phương Tây, chính quyền Xiêm khá mền dẽo, linh hoạt, “uốn theo chiều gió nhưng không gãy”, Rama III không dành cho các cường quốc đó nhiều quyền lợi mà chủ yếu vì quyền lợi dân tộc Thái, chỉ dành cho họ những quyền lợi vừa đủ để chính phủ các nước đó không thể ngây ra các cuộc chiến tranh xâm lược đối với Xiêm, để bảo vệ nền độc lập và phát triển đất nước.

Vậy vì sao Xiêm là nước duy nhất giữ vững được độc lập, không trở thành thuộc địa lý do là do sự khôn ngoan và khéo léo của các vi vua thái lan..Thời đó Thái Lan băng chiến thuật khôn ngoan vừa thương lựong với pháp, đâu kia lại thỏa hiệp với Anh, nhượng bộ Mỹ, nên Thái Lan được coi là vùng đất bất khả sâm phạm mà niếu nước A,P,M niếu nước nào chiếm Thai Lan tức là gây bất hòa giữa các nước này, vì vậy Thai lan hâu như tồn tại trong suốt khoản thời gian này. 
Nguyên nhân gián tiếp là do từ lâu Thái Lan đã mở cửa lưu thông với các nước phương tây đồng thời tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của phương tây. Vua Thái Lan đã từ lâu am hiểu về phương tây và đến đời con cháu của họ vẫn mang tư tưởng tiến bộ.

Hi vọng, với bài viết này Vietnamtravelco sẽ mang lại cho các bạn câu trả lời chính xác nhất vì sao Thái Lan không bị xâm lược. Ngoài ra, nếu đang muốn sang Thái Lan bạn cũng có thể lựa chọn các chương trình tour free and easy thái lan chỉ bao gồm vé máy bay và khách sạn, các bạn có thể thoải mái sắp xếp lịch trình riêng cho mình.

Bình luận (0)
Giang ĐaoVan
Xem chi tiết
Không Tên
2 tháng 11 2018 lúc 19:53

Ý nghĩa:
-Là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới lật đổ chính quyền tư sản .
-Lập nhà nước kiểu mới – nhà nước vô sản.


Bài học kinh nghiệm:
Muốn thắng lợi cần:
+ Phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo.
+ Phải liên minh với nông dân.
+ Phải kiên quyết trấn áp kẻ thù

Bình luận (0)
Không Tên
2 tháng 11 2018 lúc 19:54

Nhằm giảm nhẹ các mâu thuẫn trong nước và ngăn cản quá trình thống nhất nước Đức. Pháp tuyên chiến với Phổ
Năm 1870, chiến tranh Pháp - Phố nổ ra trong điều kiện không có lợi cho Pháp.
Trái với Phổ, quân Pháp chuẩn bị chu đáo để tham gia chiến tranh : quân đội chưa được huấn luyện kĩ càng, thiếu sự chỉ huy thống nhất, thiếu vũ khí. trang thiết bị. ngay cả kế hoạch tác chiến cũng không có.
Ngày 2 - 9 - 1870. Hoàng đế nước Pháp là Na-pô-lê-ông III cùng toàn bộ quân chủ lực gồm 10 vạn người bị quân Phổ bắt làm tù binh tại thành Xơ-đăng (gần biên giới Pháp - Bỉ).
Được tin đó, ngày 4 - 9 - 1870, nhân dân Pa-ri, phần lớn là công nhân và tiểu tư sản, đã đứng lên khởi nghĩa, lật đổ chính quyền Na-pô-lê-ông III. đòi thành lập chế độ cộng hòa và bảo vệ “Tổ quốc lâm nguy”. Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập? mang tên “Chính phủ vệ quốc”.
Theo đà chiến thắng, quân Phổ tiến sâu vào đất Pháp và bao vây Pa-ri. Chính phủ tư sản vội vã xin đình chiến. Bất chấp thái độ đầu hàng và hành động đàn áp phong trào đấu tranh của chính phủ tư sản, nhân dân Pa-ri kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/su-thanh-lap-cua-cong-xa-c83a13566.html#ixzz5VhXsF0uo

Bình luận (0)
Không Tên
2 tháng 11 2018 lúc 19:55

 Quá trình xâm lược

Tên các nước Đông Nam Á

Thực dân

Xâm lược

Thời gian hoàn thành xâm lược

In-đô-nê-xi-a

Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan

Giữa XIX Hà Lan hoàn thành xâm chiếm và lập ách thống trị

Phi-lip-pin

Tây Ban Nha, Mĩ

Giữa thế kỉ XVI Tây Ban Nha thống trị

- Năm 1898 Mĩ chiến tranh với Tây Ban Nha, hất cẳng Tây Ban Nha khỏi Phi-lip-pin.

- Năm 1899-1902 Mĩ chiến tranh  xâm lược  Philíppin, biến quần đảo, này thành thuộc điạ của Mĩ.

Miến Điện

Anh

Năm 1885 Anh thôn tính Miến Điện

Ma-lai-xi-a 

Anh

Đầu thế kỉ XIX Mã - lai trở thành thuộc địa của Anh

Việt Nam - Lào- Cam-pu-chia

Pháp

 Cuối thế kỉ XIX, Pháp hoàn thành xâm lược 3 nước Đông Dương

Xiêm (Thái Lan)

Anh - Pháp tranh chấp

Xiêm vẫn giữ được độc lập

Bình luận (0)
Hoàng Lâm
Xem chi tiết